Loét dạ dày tá tràng là nguyên nhân cính gây chảy máu đường tiêu hoá nói chung và chảy máu dạ dày – tá tràng. Biểu hiện lâm sàn là những hiện tượng nôn ra máu hoặc ỉa phân đen. Những triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng nhằm phát hiện, chẩn đoán phân biệt và xử lý tình trạng kịp thời.
Mục Lục
Loét tá tràng là gì?
Loét tá tràng: chảy máu ổ loét tá tràng thường gặp hơn loét dạ dày. Có 1/4 trường hợp loét tá tràng chảy máu (27,9%). Chảy máu có thể xuất hiện trong suốt quá trình tiến triển của loét. Thường gặp nhất là những trường hợp ngoài 50 tuổi.
Ổ loét thường ở mặt sau, bờ trên hoặc mặt trước hành tá tràng. Loét xơ chai, đáy sâu, ăn mòn vào thành tá tràng, mở vào các mạch máu. Nếu loét ở mặt trước thường chảy máu ít và dễ tự cầm máu hơn.
Hình ảnh loét dạ dày tá tràng
Loét dạ dày là gì?
Loét dạ dày: khoảng 15 – 16% ổ loét dạ dày có biến chứng chảy máu. Các ổ loét thường ở các vị trí như: loét bờ cong nhỏ, loét mặt sau dạ dày, loét vùng tâm vị. Các ổ loét xơ chai, đáy sâu, ăn thủng vào tổ chức xung quanh, vào các mạch máu ở thành dạ dày hay những mạch máu như các nhánh của động mạch lách, động mạch môn vị. Chảy máu ổ loét bờ cong nhỏ hay gặp ở người già, tiến triển âm thầm hay chảy máu dữ dội. Ổ loét bờ cong nhỏ thường chảy máu kéo dài, hay tái phát và ít tự cầm. Nếu có nhiều ổ loét, ngay sau khi uống thuốc kháng viêm hay uống rượu có thể cũng chảy máu ở các ổ loét.
Nguyên nhân thương tổn chảy máu
Ổ loét xơ chai, loét vừa hoặc loét non đang tiến triển cấp tính đều có thể chảy máu. Khi chảy máu có thể trong những tình trạng sau đây:
Ổ loét thủng vào mạch máu. Đó là những ổ loét nằm ở các vị trí như bờ cong nhỏ, mặt sau dạ dày gần các động mạch vành vị, môn vị, động mạch lách… những ổ loét ở bờ trên, bờ dưới và mặt sau hành tá tràng gần động mạch vị tá tràng… Những trường hợp này thường chảy máu dữ dội, mạch máu có khi phun thành tia, nhất là những bệnh nhân già, không còn khả năng co mạch. Nội soi cấp cứu sẽ thấy mạch máu phun theo nhịp đập hay máu đùn dữ dội từ đáy ổ loét, có khi không thể hút kịp để quan sát. Khi phẫu thuật, những ổ loét thường to, xơ chai, thủng, co rút các tổ chức xung quanh. Đáy ổ loét ăn mòn vào các thành mạch máu lớn gây chảy máu dữ dội, máu cục đầy lòng dạ dày, ruột non hay đại tràng.
Chảy máu từ các mạch máu ở đáy ổ loét: do ổ loét tiến triển, ăn dần vào các mạch máu lớn ở thành tá tràng hay dạ dày nên gây chảy máu. Mức độ chảy máu không dữ dội nhưng cũng ồ ạt nếu có nhiều mạch máu nhô ra. Những trường hợp này thường chảy máu tái phát nhiều lần. Sau những đợt điều trị tích cực sẽ ngừng chảy. Một thời gian sau lại tiếp tục chảy máu. Nếu nội soi khi ổ loét đã ngừng chảy máu sẽ thấy đầu của một mạch máu lồi lên hay có những mạch máu sẫm màu rải rác. Khi phẫu thuật, nếu thăm dò tổn thương sẽ thấy một đầu mạch máu chồi lên ở nền ổ loét, trong lòng được bít một đoạn máu cục sẫm màu.
Chảy máu ở mép ổ loét: do tổn thương tiến triển, niêm mạc ở mép ổ loét viêm nề, ri rỉ chảy máu. Những trường hợp này thường chảy máu ít, dai dẳng và có thể tự cầm. Chảy máu chỉ một vài điểm ở ổ loét. Khi nội soi sẽ thấy bờ ổ loét sưng nề, đỏ sẫm và đang rỉ rả chảy máu.
Chảy máu từ niêm mạc xung quanh ổ loét: có những trường hợp không chảy máu ở ngay ổ loét mà chảy máu ở xung quanh ổ loét. Đó là do viêm cấp tính, hoặc sau khi uống các loại thuốc kháng viêm không phải steroid như aspirin, Voltaren hay corticoid gây loét trợt (Erosion) ở vùng hang vị, hay toàn bộ niêm mạc dạ dày. Đáy ổ loét và xung quanh không thấy chảy máu.
Hình ảnh tổn thương niêm mạc gây chảy máu dạ dày
Nguyên nhân tổn thương phối hợp
Loét dạ dày kèm theo loét tá tràng. Thường gặp ở bệnh nhân có tiền sử nhiều năm. Ổ loét hành tá tràng xơ chai, chít hẹp môn vị, gây ứ đọng hình thành nhiều ổ loét và chảy máu. Thông thường chỉ chảy máu ở một ổ loét, ít khi chảy từ 2 ổ loét.
Loét tá tràng phát hiện trong 6-10% bệnh nhân xơ gan. Có thể tổn thương loét hoặc là những tổn thương viêm, xước rách niêm mạc. Có thể chảy máu từ ổ loét, nhưng cũng có thể chảy máu từ vỡ các búi tĩnh mạch, từ các vết rách xước niêm mạc (Mallory-Weiss).
Giãn tĩnh mạch thực quản: là hậu quả của tăng áp lực tĩnh mạch cửa. Bệnh nhân cấp cứu do vỡ các búi tĩnh mạch nên chảy máu dữ dội. Tuy nhiên có trường hợp kèm theo loét dạ dày – tá tràng. Chảy máu có thể do các búi tĩnh mạch vỡ hoặc có thể từ ổ loét. Rất ít trường hợp chảy máu từ 2 tổn thương.
Bài viết bạn quan tâm
Gắp hàng chục viên sỏi mật từ một người phụ nữ béo phì
Aug
Chi phí phẫu thuật thu nhỏ dạ dày giảm béo là bao nhiêu?
Jul
Những lưu ý sau phẫu thuật thu nhỏ dạ dày giảm cân
Jun
Tập luyện như thế nào sau khi đã thu nhỏ dạ dày
Jun
Ăn như thế nào sau khi thu nhỏ dạ dày?
Jun
Sau khi thu nhỏ dạ dày có bị béo phì trở lại không?
Jun
Cần làm gì sau khi phẫu thuật thu nhỏ dạ dày?
Jun
Những điều cần thực hiện trước khi thu nhỏ dạ dày
Jun
Đặt lịch hẹn