Lịch sử điều trị trĩ bằng phương pháp phẫu thuật

Trên thế giới, đã có nhiều tài liệu nói về phẫu thuật điều trị trĩ. Năm 1700 trước công nguyên, trong bản giấy cói của người Ai Cập đã nói về điều trị bệnh trĩ.

Năm 460 trước công nguyên, Hippocrate mô tả phương pháp điều trị bệnh trĩ giống như thắt vòng cao su ngày nay. Celcus, bác sĩ La Mã mô tả các biến chứng của thắt và cắt trĩ. Galen cho rằng việc cắt đứt liên kết của động mạch đến tĩnh mạch có thể giảm đau và tránh lây lan hoại tử. Sushruta Samhita, một bản tiếng Sanskrit cổ Ấn Độ (thế kỷ thứ tư và thứ năm), mô tả với quan điểm giống Hippocrate, thể hiện sự tiến bộ trong PT và làm sạch vết thương.

Trong thế kỷ 19, điều trị bệnh trĩ bằng nong HM đã trở thành phổ biến. Ở Mỹ, Mitchell (Illinois) là người đầu tiên sử dụng axit carbolic tiêm vào búi trĩ. Năm 1888, Fredrick Salamon, người sáng lập bệnh viện St. Marks’, mở rộng các phẫu thuật cho bệnh trĩ, kết hợp cắt và thắt trĩ.

Lịch sử điều trị trĩ bằng phương pháp phẫu thuật

Hình 1: Phương pháp tiêm xơ búi trĩ

Theo Parks, Salamon không để lại tài liệu nào, chỉ có Allingham là có tường trình cách này vào năm 1871. Các tác giả nói trên bóc tách cẩn thận từng búi trĩ ra khỏi cơ thắt hậu môn lên tận phần trên ống hậu môn rồi buộc gốc các búi trĩ, giải quyết được vấn đề chảy máu nhưng về sau có một số bệnh nhânbị teo hẹp ống hậu môn.

Năm 1882, Whitehead mô tả một phương pháp trị trĩ rất tận gốc bằng cách cắt bỏ tất cả vùng có thể có trĩ, nghĩa là cắt phần niêm mạc và dưới niêm mạc ở đoạn trên ống hậu môn. Whitehead nhấn mạnh là chỉ cắt ở phần trên đường lược và chừa lại phần da của đoạn dưới ống hậu môn. Tuy nhiên phương pháp này lại có nhiều bất tiện, một là niêm mạc lúc này thiếu nên khi khâu lại sẽ căng quá về sau bị đứt và hậu quả sau mổ hậu môn bị teo hẹp vì lành sẹo và mô xơ. Bất tiện thứ hai là nếu niêm mạc không bị đứt ra thì sau này bị sa, nằm thấp hơn bình thường cho nên sẽ tiết chất nhày liên tục gây khó chịu cho bệnh nhân.

Vì các lẽ đó, ở Anh quốc phương pháp Whitehead không được ưa chuộng. Tuy vậy vẫn có một số tác giả trên thế giới như Fansler (1934) tìm cách cải biên nhằm tránh những hạn chế nêu trên nhưng tỷ lệ teo hẹp hậu môn vẫn còn cao.

Ở Mỹ, năm 1911, Earle là người đề xướng sau khi bóc tách trĩ thì kẹp ngang cuống trĩ rồi khâu liên tục trên kẹp. Miles (1919) chỉ bóc tách giới hạn búi trĩ rồi buộc (trong đó có phần da nhạy cảm ở hậu môn). Vì vậy sau mổ bệnh nhân rất đau.

Tại Anh quốc, phương pháp của Salamon được cải tiến rồi được Milligan và Morgan mô tả năm 1937. Các tác giả mô tả chi tiết về kỹ thuật và nhấn mạnh là phải bóc tách lên cao khỏi giới hạn da-niêm mạc để khi buộc không buộc vào vùng da nhạy cảm ở hậu môn.

Buie (1937) mô tả phương pháp vừa buộc vừa cắt nhưng vẫn dùng một phương pháp tương tự kỹ thuật của Whitehead để điều trị các trường hợp sa niêm quá nhiều. Buie nhấn mạnh, phải để lại vùng da để tái tạo đúng giải phẫu học hậu môn, nên tác giả khâu niêm mạc vào cơ thắt ngoài ở đoạn giữa ống hậu môn để tránh sa về sau.

Granet (1953) cũng cải biến phương pháp Whitehead.

Graham Steward (1963) cũng mô tả một phương pháp gần giống, nhưng ít biến chứng hơn Whitehead.

Năm 1774, Petit là người đầu tiên mô tả cách cắt trĩ mà không cắt bỏ niêm mạc ở đoạn dưới ống hậu môn: Rạch niêm phủ trên búi trĩ, bóc tách niêm mạc, chỉ cắt trĩ rồi kéo niêm mạc che phủ lại trên vết mổ. Tuy nhiên, vào thời kỳ này vấn đề vô cảm còn hạn chế nên phẫu thuật rất khó khăn.

Năm 1956, ở Anh Quốc, Parks lại dùng nguyên tắc của Petit và thực hiện phương pháp này dưới một hình thức khác là mổ bên trong ống hậu môn nhờ một dụng cụ chứ không kéo trĩ xuống. Nhờ thế Parks không làm thay đổi giải phẫu học vùng ống hậu môn.

Lịch sử điều trị trĩ bằng phương pháp phẫu thuật

Hình 2: Phương pháp phẫu thuật Longo

Từ đó đến nay các phương pháp phẫu thuât cắt trĩ không ngừng cải tiến, đặc biệt là khi phương pháp phẫu thuật Longo ra đời đã đánh dấu bước ngoặt trong trong điều trị bệnh trĩ.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *