- Trang chủ
- Bệnh béo phì
- Dự phòng bệnh tiêu hóa
- Phát hiện sớm bệnh tiêu hóa
- Điều trị bệnh tiêu hóa
- Hướng dẫn sau mổ
PGS.TS.BS Nguyễn Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Phẫu thuật Tiêu hóa – Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, chia sẻ tại buổi họp báo công bố nghiên cứu ACTION ngày 21/6:
“Vấn đề là làm sao để người bệnh không còn bị kỳ thị, không ngại ngần tìm đến bác sĩ, đồng thời hệ thống y tế cần tạo điều kiện thuận lợi nhất để chẩn đoán và điều trị béo phì hiệu quả, từ sớm.”
Nghiên cứu ACTION được thực hiện tại 9 quốc gia Đông Nam Á, nhằm đánh giá nhận thức, thái độ, hành vi và các rào cản trong quản lý béo phì hiệu quả. Tại Việt Nam, khảo sát được thực hiện với 1.000 người béo phì và 200 chuyên gia y tế trong giai đoạn tháng 4–5/2022, kết quả vừa được công bố trên Tạp chí Liên đoàn Nội tiết Đông Nam Á (tháng 4/2025).
Một trong những điểm đáng chú ý là gần 1/3 người béo phì không nhận thức rõ về tình trạng của bản thân, cho rằng họ chỉ “thừa cân” hoặc “bình thường”. Bên cạnh đó, không ít người gặp khó khăn trong công việc, các mối quan hệ xã hội hay tình cảm do bị kỳ thị về ngoại hình.
Chỉ một nửa số người béo phì từng trao đổi với nhân viên y tế về cân nặng trong 5 năm gần đây. Lý do thường gặp là họ cho rằng việc giảm cân hoàn toàn là trách nhiệm cá nhân, bác sĩ không thể giúp được gì hoặc không đủ tài chính để điều trị. Trung bình, họ từng cố gắng giảm cân khoảng 4 lần nhưng không thành công, nguyên nhân chính là thiếu động lực và vận động.
Đáng lo ngại hơn, 40% nhân viên y tế cho biết họ không thoải mái khi nói về vấn đề cân nặng, trừ khi bệnh nhân chủ động đề cập trước. Lý do phổ biến là lo ngại người bệnh không quan tâm hoặc thiếu động lực thay đổi.
Tuy vậy, phần lớn người bệnh sau khi được tư vấn y tế đều có cảm xúc tích cực, cảm thấy hy vọng, được hỗ trợ và có thêm động lực. Chỉ một số ít cảm thấy xấu hổ hoặc bị tổn thương sau cuộc trò chuyện.
Theo PGS.TS.BS Nguyễn Anh Tuấn, nhận thức sai lệch về béo phì tồn tại ở cả người bệnh lẫn nhân viên y tế. Trong khi đó, tỷ lệ béo phì tại Việt Nam đang gia tăng đáng báo động. Số liệu cho thấy:
Tỷ lệ thừa cân, béo phì ở Việt Nam tăng 38% trong thập kỷ qua.
Giai đoạn 2020–2035, dự kiến số người trưởng thành có BMI cao sẽ tăng 4% mỗi năm, trong khi ở trẻ em là 7%.
Tại TP.HCM, tỷ lệ béo phì ở thanh thiếu niên đã vượt 50%; ở Hà Nội là hơn 41%.
Béo phì làm tăng nguy cơ mắc nhiều bệnh lý nguy hiểm như đột quỵ, tiểu đường, tim mạch, ung thư, trầm cảm, vô sinh, rối loạn giấc ngủ, thoái hóa khớp, tai biến sản khoa... Tại Việt Nam, số ca tử vong liên quan đến béo phì đã tăng hơn 500% từ năm 1990 đến 2019 (từ 6.300 lên hơn 31.600 ca).
Bác sĩ Georgia Rigas – giảng viên Đại học New South Wales (Australia), chuyên gia hàng đầu thế giới về quản lý béo phì – nhấn mạnh:
“Trong nhiều thập kỷ, béo phì bị hiểu sai là do thiếu ý chí. Thực tế, đây là một bệnh mạn tính tiến triển, có thể liên quan đến gene, chuyển hóa, môi trường, giấc ngủ, thuốc điều trị, và nhiều yếu tố khác. Không ai mong muốn mình bị béo phì.”
Quản lý bệnh béo phì không đơn thuần là giảm cân, mà cần hướng đến cải thiện sức khỏe tổng thể và phòng ngừa biến chứng. Tùy theo mức độ, người bệnh có thể điều trị bằng thay đổi lối sống, dùng thuốc hoặc phẫu thuật.
Việc sớm can thiệp, chủ động điều trị sẽ giúp hạn chế các hậu quả lâu dài. Tuy nhiên, khoảng cách tâm lý giữa bệnh nhân và nhân viên y tế vẫn là rào cản lớn.
“40% bác sĩ ngại đề cập đến cân nặng, trong khi gần 50% người bệnh cảm thấy xấu hổ khi bị hỏi về vấn đề này – đây là một rào cản quan trọng cần sớm được tháo gỡ”, phó giáo sư Tuấn nhận định.
Trong chuyến làm việc tại Việt Nam từ ngày 20–25/6, bác sĩ Georgia Rigas đã chia sẻ chuyên môn với gần 900 y bác sĩ, tập trung vào việc xây dựng mô hình quản lý béo phì chuẩn hóa, cập nhật mối liên hệ giữa béo phì và các bệnh lý liên quan. Bà cũng trình bày các tình huống lâm sàng điển hình và phương pháp tiếp cận điều trị ở tuyến y tế cơ sở.