Phương pháp phẫu thuật điều trị ung thư dạ dày đã được nghiên cứu từ hàng trăm năm qua. Kết hợp với các phương pháp điều trị khác nhau được đề cập đến như phẫu thuật, hóa trị, xạ trị, liệu pháp miễn dịch trị… Tuy nhiên mỗi phương pháp đều có những hạn chế nhất định. Nhưng, phẫu thuật vẫn được xem là phương pháp điều trị tối ưu nhất. Đây là lựa chọn đầu tiên cho quyết định điều trị.
Phẫu thuật ung thư dạ dày
Avicenna (980 – 1037) là người báo cáo đầu tiên về ung thư dạ dày. Năm 1761, Morgagni là người đầu tiên mô tả chi tiết về tổn thương ác tính của dạ dày.
Năm 1879, Péan là người đầu tiên mổ cắt dạ dày cho một bệnh nhân ung thư dạ dày. Nhưng bệnh nhân đã tử vong sau mổ 5 ngày.
Năm 1881, Billroth là người đầu tiên mổ cắt dạ dày thành công trên người. Phẫu thuật cắt dạ dày theo Billroth I đã mang tên ông cho đến bây giờ.
Phẫu thuật ung thư dạ dày vào thế kỷ 19
Năm 1885, sau khi cắt bỏ phần xa dạ dày của bệnh nhân bị ung thư. Billroth đóng mỏm tá tràng và mặt cắt của dạ dày. Để lưu thông dạ dày, ông thực hiện miệng nối dạ dày – ruột non bằng cách nối ruột non vào mặt sau mỏm dạ dày. Từ đó, phẫu thuật này được gọi là phẫu thuật Billroth II.
Năm 1888, Von Eiselsberg là người đầu tiên thay đổi kiểu nối Billroth II bằng cách khâu bớt phần trên của mỏm cắt dạ dày rồi nối phần dưới còn lại của mỏm dạ dày với hỗng tràng kiểu tận – bên. Nhưng đến năm 1889 Hofmester và năm 1919 Finsterer mới công bố phẫu thuật đó. Vì vậy ngày nay phẫu thuật này mang tên Hofmester – Finsterer.
Năm 1897, Schlatter là người đầu tiên trên thế giới thực hiện thành công ca cắt toàn bộ dạ dày điều trị ung thư.
Năm 1899, Braun tạo thêm một miệng nối giữa quai đến và quai đi kiểu bên – bên để lưu thông quai đến dễ dàng hơn. Sau này miệng nối này được gọi là miệng nối Braun.
Năm 1906, Cuneo là người đầu tiên mô tả dẫn lưu bạch huyết của dạ dày và ảnh hưởng đến mức độ cắt dạ dày trong ung thư.
Năm 1907, Roux cắt dạ dày toàn bộ và tái lập lưu thông tiêu hóa theo kiểu chữ Y.
Năm 1911, Polya cải tiến phương pháp phẫu thuật Billroth II. Để nguyên mỏm cắt dạ dày và nối tận – bên vào quai hỗng tràng. Được gọi là miệng nối Polya.
Năm 1951, Mc Neer là người đầu tiên đề cập đến kỹ thuật nạo vét hạch rộng rãi trong điều trị ung thư dạ dày sau khi phẫu tích 92 mẫu tử thi sau cắt dạ dày do ung thư. Không lâu sau đó, năm 1953 Sunderland mô tả chi tiết hệ thống bạch huyết quanh dạ dày.
Về phẫu thuật nội soi điều trị ung thư dạ dày, năm 1991 Kitano báo cáo trường hợp đầu tiên trên thế giới
Vị trí các Troca trong phương pháp phẫu thuật cắt dạ dày nội soi hoàn toàn trong ổ bụng.
Để hiểu hơn về phẫu thuật nội soi điều trị ung thư dạ dày các bạn có thể đọc bài “Phẫu thuật nội soi cắt dạ dày có từ bao giờ”
Bài viết bạn quan tâm
Gắp hàng chục viên sỏi mật từ một người phụ nữ béo phì
Aug
Chi phí phẫu thuật thu nhỏ dạ dày giảm béo là bao nhiêu?
Jul
Những lưu ý sau phẫu thuật thu nhỏ dạ dày giảm cân
Jun
Tập luyện như thế nào sau khi đã thu nhỏ dạ dày
Jun
Ăn như thế nào sau khi thu nhỏ dạ dày?
Jun
Sau khi thu nhỏ dạ dày có bị béo phì trở lại không?
Jun
Cần làm gì sau khi phẫu thuật thu nhỏ dạ dày?
Jun
Những điều cần thực hiện trước khi thu nhỏ dạ dày
Jun
Đặt lịch hẹn