Thực quản là cơ quan nào?

Thực quản là gì?

Thực quản là đoạn đầu của ống tiêu hoá, nối hầu với dạ dày. Miệng thực quản nằm ngang bờ dưới sụn nhẫn. Đầu dưới đổ vào bờ phải phình vị lớn gọi là tâm vị.

Ở người lớn, chiều dài thực quản vào khoảng 25cm, và có 4 chỗ hẹp. Từ trên xuống dưới, thực quản đi qua vùng cổ trước, trung thất sau, lỗ cơ hoành để xuống bụng.

Như vậy thực quản có 3 phần chính, phần cổ dài 5 – 6 cm, phần ngực dài 16 – 18 cm, phần bụng dài 2 – 3 cm.

Cấu trúc mô học của thực quản.

Về cấu trúc mô học, thành thực quản có 4 lớp:

– Lớp niêm mạc: gồm lớp biểu mô vẩy, không sừng hóa.

– Lớp dưới niêm mạc: là mô liên kết lỏng lẻo nhưng bền chắc.

– Lớp cơ thực quản: dày từ 1- 1,5 mm, gồm lớp cơ vòng và cơ dọc.

– Lớp vỏ: lớp vỏ là một tổ chức liên kết lỏng lẻo dễ bóc tách. Như vậy lớp niêm mạc và dưới niêm mạc là thành phần bền chắc nhất trong khâu nối thực quản.

Tại sao phẫu thuật thực quản lại khó?

Trong ngoại khoa tiêu hóa, phẫu thuật các bệnh về thực quản là khó khăn nhất. Bởi vì vị trí của thực quản liên quan đến nhiều cơ quan cực kỳ nguy hiểm như tim, hệ mạch chủ, khí phế quản.Cho nên chúng ta cần nắm rõ giải phẫu các đoạn thực quản: Thực quản cổ, thực quản ngực, đoạn đi qua lỗ cơ hoành, thực quản đoạn bụng:

Các đoạn thực quản

Phần thực quản cổ

Thực quản cùng với khí quản và tuyến giáp tạo ra trục tạng, trục tạng nằm trong bao tạng.

  • Liên quan trong bao tạng.

Phía trước, thực quản nằm sau và lệch nhẹ sang trái khí quản, liên quan với khí quản bởi tổ chức liên kết và cơ khí quản – thực quản dễ bóc tách. Hai bên, thực quản liên quan với thùy trái và phải của tuyến giáp, các tuyến cận giáp, quai thứ hai của động mạch giáp dưới, hai dây thần kinh quặt ngược. Phía sau, thực quản nằm sát và dính vào thân các đốt sống cổ bởi một khoang tổ chức liên kết lỏng lẻo dễ bóc tách.

  • Liên quan ngoài bao tạng.

Phía trước, thực quản liên quan với cơ vai móng, cơ ức giáp, cơ ức móng và cơ ức đòn chũm. Phía sau, thực quản là khoang sau tạng, cân trước cột sống và các cơ trước cột sống cổ. Phía trước bên, bó mạch thần kinh nằm ngoài thực quản. Động mạch giáp dưới bắt chéo trước bên thực quản. Ống ngực ở bên trái vòng ra phía trước để đổ vào hợp lưu Pirogoff. Nông nhất là các thành phần phía trước ngoài của máng cảnh gồm da, cơ bám da, cân cổ nông, cơ ức đòn chũm, cân cổ giữa, cơ vai móng và là đường mổ trước bên để vào thực quản cổ. Đường mổ cổ trái thường được sử dụng hơn bên phải.

Phần thực quản ngực

Phần ngực dài 16-18 cm, nằm sâu nhất trong lồng ngực, tạo ra trục tạng của trung thất sau, có thể chia thành 3 đoạn bởi quai động mạch chủ và quai tĩnh mạch đơn, ngang mức đốt sống ngực 4.

  • Liên quan phía trước.

Từ trên xuống dưới, thực quản liên quan với 3 thành phần chính là khí quản, phế quản gốc trái, khoang giữa khí quản – phổi, tim và màng ngoài tim. Thực quản nằm sau và lệch nhẹ sang trái khí quản. Trong khe thực quản – khí quản có thần kinh quặt ngược trái đi từ dưới lên. Xuống thấp hơn, thực quản bắt chéo phía sau của phế quản gốc trái.

Ở xa hơn trước khí quản là thân động mạch cánh tay đầu trái đi lên và hai thân tĩnh mạch cánh tay đầu hợp lại thành tĩnh mạch chủ trên. Khoang hình thoi được tạo ra bởi ngã ba khí phế quản và chỗ chia đôi của thân động mạch phổi, chứa bạch huyết. Xuống thấp hơn, thực quản tiếp xúc với màng tim, tim. Dưới cùng, thực quản liên quan với khoang mỡ Portal do màng tim, phần đổ ra sau cơ hoành tạo ra.

  • Liên quan phía sau.

Phía sau, thực quản liên quan với cột sống và các mạch máu trước cột sống. Các mạch máu chạy dọc của trung thất sau bao gồm động mạch chủ xuống đi chếch xuống, ra trước và vào trong, nằm trước cột sống. Tĩnh mạch đơn lớn đi lên, ở bên phải mặt trước cột sống, tới D4, D5 thì uốn cong ra trước, tạo ra quai tĩnh mạch đơn đổ vào tĩnh mạch chủ trên. Tĩnh mạch bán đơn trên và dưới nằm trên bờ trái của cốt sống, đổ vào tĩnh mạch đơn lớn. Ống ngực đi lên, nằm giữa tĩnh mạch đơn lớn và động mạch chủ xuống, đến nền cổ thì tạo ra quai tận và đổ vào hợp lưu Pirogoff. Màng phổi trung thất tạo ra hai túi cùng màng phổi.

  • Liên quan bên trái.

Liên quan bên trái được chia làm 3 đoạn dựa vào chỗ bắt chéo với quai động mạch chủ. Quai động mạch chủ bắt chéo trước thực quản và chắn đường vào trung thất sau chỗ nối 2/3 dưới và 1/3 trên của thực quản. Ở đây có thần kinh quặt ngược trái tách từ thần kinh X trái, đi ngược lên và có những nhánh bên của quai động mạch chủ chi phối cho thực quản, khí phế quản nên phẫu tích thực quản vùng này rất khó khăn và nguy hiểm .

Phía trên quai động mạch chủ, thực quản tiếp giáp với màng phổi trung thất và nằm trong hố Poitier được tạo ra bởi động mạch dưới đòn, quai động mạch chủ và cột sống mà Rezano mô tả là tam giác trên để cắt thực quản. Dưới quai động mạch chủ, thần kinh X trái bắt chéo sau phế quản gốc trái và động mạch phổi trái.

  • Liên quan bên phải.

Bên phải, thực quản có mối liên quan đơn giản và ít nguy hiểm hơn. Thực quản liên quan với quai tĩnh mạch đơn ở ngang D4. Quai tĩnh mạch đơn đi ngang qua từ sau ra trước để đổ vào mặt sau tĩnh mạch chủ trên.

Đoạn trên quai tĩnh mạch đơn, thực quản nằm ở hố của màng phổi trung thất, liên quan với màng phổi trung thất. Thần kinh X phải đi xuống, chếch từ trước ra sau để tới bờ phải thực quản. Đi kèm theo thần kinh X có chuỗi hạch của khoang Barety bên phải của khí quản. Đoạn dưới quai tĩnh mạch đơn, thực quản liên quan trực với màng phổi.

Phần thực quản đi qua lỗ cơ hoành

Đoạn thực quản đi qua cơ hoành và thực quản bụng

Thực quản từ trên ngực đi xuống chui qua lỗ thực quản của cơ hoành cùng hai thân thần kinh X trước và dây X sau. Qua đường mổ bụng có thể bóc tách thực quản lên rất cao qua lỗ cơ hoành.

Phần thực quản bụng

Thực quản đi từ ngực xuống đổ vào tâm vị dạ dày, thực quản bụng dài 3-5cm. Phúc mạc thành phủ mặt trước thực quản, mặt sau thực quản không có phúc mạc, thực quản treo vào cơ hoành bởi 2 nếp phúc mạc. Mặt sau thực quản tựa trực tiếp vào cột trụ trái cơ hoành và các dây chằng hoành dạ dày. Bờ trái thực quản đối diện với bờ phải của phình vị lớn để tạo ra góc His.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *